Văn hóa là gì? Văn hóa bao gồm những gì? Để giúp bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này, Hoatieu.vn xin gửi đến bạn đọc những nét khái quát về văn hóa để bạn đọc hiểu rõ hơn. Mời bạn đọc xem chi tiết và tải về tại đây.
MỤC LỤC
1. Khái niệm văn hóa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: ‘Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Trải qua nhiều thế kỷ, hoạt động sáng tạo đó đã hình thành nên một hệ thống giá trị, truyền thống và thị hiếu – những yếu tố quy định nét độc đáo của mỗi quốc gia. Định nghĩa này nhấn mạnh đến hoạt động sáng tạo của cộng đồng người gắn liền với quá trình phát triển lịch sử của mỗi cộng đồng trong một thời gian dài tạo nên những giá trị nhân văn phổ quát, đồng thời mang tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc của mỗi dân tộc. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa chung này thì trong quản lý nhà nước về văn hóa, chúng ta rất dễ bị hiểu nhầm: Quản lý văn hóa là quản lý các hoạt động, hoạt động sáng tạo. hẹp hơn nữa là quản lý hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật. Thực tế, quản lý văn hóa đã không như vậy, quản lý văn hóa ở cấp xã lại càng không.
Theo Hồ Chí Minh: “Vì sự tồn tại cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn giáo, văn học và nghệ thuật. , các công cụ sinh hoạt hàng ngày về quần áo, thức ăn, chỗ ở và phương pháp sử dụng. Tất cả những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa ”. Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu về văn hóa một cách cụ thể và đầy đủ hơn. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết là “vì sự sống cũng như mục đích sống”, những hoạt động sống đó trải qua thực tiễn và thời gian được lặp đi, lặp lại thành thói quen, phong tục, chắt lọc thành chuẩn mực, tích lũy giá trị vật chất và tinh thần, lưu truyền. từ thế hệ này sang thế hệ khác, thành kho tàng quý báu mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp phần trở thành di sản. văn hóa của cả nhân loại.
Ở góc độ khác, người ta coi văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và được tích lũy trong hoạt động thực tiễn thông qua quá trình tác động qua lại giữa con người với tự nhiên và xã hội. xã hội và bản thân. Văn hóa là của con người, do con người sáng tạo ra và vì lợi ích của con người. Văn hóa được con người gìn giữ, sử dụng để phục vụ đời sống con người và được truyền từ đời này sang đời khác.
2. Khái niệm chung về văn hóa
Văn hóa là gì? Văn hóa là tất cả những giá trị hữu hình do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Văn hóa bao gồm tất cả các sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, ý tưởng, giá trị và khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, xe cộ, v.v. Cả hai khía cạnh này đều cần thiết để tạo nên một sản phẩm và nó là một phần của văn hóa.
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh… Các “trung tâm văn hóa” ở khắp mọi nơi đều là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là một lối sống bao gồm phong cách ăn, mặc, ứng xử và thậm chí cả niềm tin và kiến thức nhận được … Do đó chúng ta nói ai đó là người có văn hóa cao. , có văn hóa thấp hoặc văn hóa, vô văn hóa.
Trong nhân học và xã hội học, khái niệm văn hóa được nói đến theo nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ là một phần của cuộc sống con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà còn bao gồm cả vật chất.
Văn hóa gắn liền với quá trình tiến hóa sinh học của con người và nó là sản phẩm của những người thông minh (Homo sapiens). Trong quá trình phát triển, các tác động hay bản năng sinh học giảm dần khi con người có được trí thông minh để định hình môi trường tự nhiên. Lúc này, bản chất con người không còn là bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc hình thành thế giới vượt trội hơn bất kỳ loài động vật nào khác, và chỉ có con người mới dựa vào văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo sự tồn tại của giống loài mình. Con người có khả năng hình thành văn hóa, và với tư cách là một thành viên của xã hội, người ta tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó và truyền nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chia sẻ một nền văn hóa chung giúp xác định nhóm người hoặc xã hội mà các cá nhân thuộc về.
Văn hóa bao gồm tất cả các sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả các khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, ý tưởng, giá trị và khía cạnh vật chất. chẳng hạn như nhà cửa, quần áo, xe cộ,… Cả hai khía cạnh đều cần thiết để tạo nên một sản phẩm và nó là một phần của văn hóa.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một góc nhìn và cách đánh giá khác nhau. Kể từ năm 1952, hai nhà nhân chủng học người Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã tổng hợp 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các tác phẩm nổi tiếng thế giới. Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân chủng học (như nó được gọi ở Mỹ hoặc dân tộc học hiện đại như nó được gọi ở châu Âu), văn hóa dân gian, địa văn hóa, hóa học, v.v. nghiên cứu, xã hội học, v.v. và trong mỗi lĩnh vực đó, định nghĩa về văn hóa. cũng khác nhau. Các định nghĩa về văn hóa rất nhiều và đa dạng đến mức ngay cả việc phân loại các định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Một trong số họ phân loại các định nghĩa về văn hóa thành các loại chính sau:
Về mặt khoa học: Văn hóa có nguồn gốc từ chữ Latinh “Cultus” nghĩa là trồng trọt, được dùng với nghĩa Cultus Agri “trồng đất” và Cultus Animi “trồng cây” tức là trồng cây. “giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người”. Theo triết gia người Anh Thomas Hobbes (1588-1679), “Công đức trời sinh gọi là gieo nhân, nuôi con gọi là tu thân”.
Các định nghĩa mang tính mô tả: định nghĩa văn hóa theo nghĩa mà văn hóa bao hàm, ví dụ nhà nhân chủng học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 – 1917) đã định nghĩa văn hóa như sau: văn hóa hay nền văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học, nó là một tổng thể phức tạp bao gồm tri thức, tín ngưỡng. , nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục tập quán và bất kỳ khả năng và thói quen nào khác mà con người có được với tư cách là một con người. là một thành viên của xã hội.
Các định nghĩa lịch sử: nhấn mạnh các quá trình kế thừa truyền thống, xã hội dựa trên quan điểm về sự ổn định văn hóa. Một trong những định nghĩa đó là của Edward Sapir (1884 – 1939), nhà nhân học, ngôn ngữ học người Mỹ: văn hóa là chính con người, thậm chí là những con người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu dùng. đại diện cho một hệ thống phức tạp của các phong tục, hành vi và thái độ truyền thống được bảo tồn.
Các định nghĩa chuẩn mực: nhấn mạnh các khái niệm về giá trị, ví dụ: William Isaac Thomas (1863 – 1947), nhà xã hội học người Mỹ, người coi văn hóa là những giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (thể chế, phong tục, ứng xử, …).
Các định nghĩa tâm lý: nhấn mạnh đến quá trình thích nghi với môi trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, hành vi của con người. Một trong những định nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840-1910), viện sĩ người Mỹ, giáo sư tại Đại học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và cộng tác viên của ông, là: Tổng thể những thích nghi của con người với điều kiện sống của họ là văn hóa, hay nền văn minh .. Những sự thích nghi này được đảm bảo bằng sự kết hợp của các kỹ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền tải bằng kế thừa.
Định nghĩa về cấu trúc: tập trung vào khía cạnh tổ chức cấu trúc của văn hóa, ví dụ: Ralph Linton (1893 – 1953), nhà nhân học người Mỹ định nghĩa: a. Xét cho cùng, văn hóa là những phản ứng lặp đi lặp lại. các thành viên có tổ chức nhiều hay ít trong xã hội; b. Văn hóa là tổng thể các hành vi mà các yếu tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và được truyền lại thông qua việc thừa kế.
Định nghĩa nguồn gốc: xác định văn hóa từ quan điểm nguồn gốc của nó, ví dụ: Định nghĩa của Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 – 1968), nhà xã hội học người Mỹ gốc Nga, người sáng lập Khoa Xã hội học của trường Đại học Theo nghĩa rộng nhất, văn hóa đề cập đến toàn bộ cái được tạo ra hoặc sửa đổi bởi hoạt động có ý thức hoặc vô thức của hai hoặc nhiều cá nhân tương tác với nhau và ảnh hưởng đến hành vi của họ. cùng với nhau.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa cần được coi là một tập hợp các đặc điểm tinh thần, vật chất, trí tuệ và tình cảm của một xã hội hoặc một nhóm. con người trong xã hội và nó còn chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cách sống, cách sống chung, hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng.
Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong mối quan hệ tương hỗ giữa con người và xã hội. Tuy nhiên, chính văn hóa mới tham gia vào việc sáng tạo ra con người, và duy trì sự ổn định và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình con người hoạt động và giao tiếp xã hội. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và xã hội thể hiện ở các kiểu, hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như ở các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra.
Khái niệm văn hóa: Từ văn hóa có nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông thường để chỉ trình độ học vấn và lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt, nó dùng để chỉ mức độ phát triển của một giai đoạn. Theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống … + Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam – Bộ Giáo dục và Đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: “Văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”.
+ Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm về văn hóa:
– Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
– Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sng1 tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.
– Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát);
– Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát);
– Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh;
– Văn hóa còn là cum từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn
+ Trong cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: Văn hóa – vô sở bất tại: Văn hóa – không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con người nơi đó có văn hóa.
+ Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
+ Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO: Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia.
Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.
Tiểu văn hóa
Tiểu văn hóa là văn hóa của các cộng đồng xã hội mà có những sắc thái khác với nền văn hóa chung của toàn xã hội. Người ta thường hay nhắc đến tiểu văn hóa của thanh niên, của một dân tộc ít người nào đó hay tiểu văn hóa của một cộng đồng người dân sinh sống lâu đời ở một nước, v.v… Thực chất, tiểu văn hóa vẫn là một bộ phận của nền văn hóa chung; nó chỉ có những nét khác biệt khá rõ so với nền văn hóa chung, song không đối lập với nền văn hóa chung đó.
Mỗi xã hội đều có những dân tộc và cộng đồng khác nhau, và mỗi cộng đồng nhỏ ấy đều có những mô hình ứng xử riêng, mang đặc trưng của cộng đồng ấy. Những biểu hiện ấy được gọi là “tiểu văn hóa” hay “văn hóa phụ”. Các cộng đồng này thường bao gồm những cá nhân có cùng một nền tảng dân tộc hoặc chủng tộc, quốc tịch hoặc tôn giáo, đôi khi đó còn là những nhóm người trong các lĩnh vực nghề nghiệp, lứa tuổi,… Bên trong các nhóm tiểu văn hóa có thể dễ dàng tìm thấy sự đồng tình, nhưng giữa các nhóm tiểu văn hóa với toàn xã hội nói chung, vẫn thường xảy ra sự bất đồng nào đó.
Phản văn hóa
Trong khi tiểu văn hóa vẫn hướng tới bảo vệ những giá trị của nền văn hóa chung, thì phản văn hóa công khai bác bỏ những chuẩn mực, giá trị của nền văn hóa chung. Phản văn hóa có thể được xem như tập hợp các chuẩn mực, giá trị của một nhóm người trong xã hội mà đối lập, xung đột với các chuẩn mực, giá trị chung của toàn xã hội. Như vậy, so với tiểu văn hóa thì sự khác biệt giữa phản văn hóa và văn hóa chung là lớn hơn nhiều. Phản văn hóa là điều thường thấy trong mọi xã hội.
Văn hóa nhóm
Văn hóa nhóm là một hệ thống các giá trị, quan niệm và phong tục tập quán được hình thành trong một nhóm. Văn hóa nhóm được hình thành khi các mối quan hệ trong nhóm được thiết lập và với quy luật thời gian được hình thành, thông tin được trao đổi và các thành viên cùng nhau trải nghiệm các sự kiện. Tất cả các phân nhóm đều có nền văn hóa riêng, nhưng đồng thời là một bộ phận của toàn bộ nền văn hóa của xã hội. Như vậy, tiểu văn hóa cho thấy trong một nền văn hóa chung cũng có thể có những nét riêng biệt của các tập đoàn và tổ chức xã hội khác nhau. Cũng có ý kiến cho rằng, tiểu văn hóa dùng để chỉ một nền văn hóa cụ thể nhỏ hơn một tiểu văn hóa.
Văn minh
Ở một mức độ nào đó, cũng cần phân biệt văn hóa với văn minh. Đây là một vấn đề khá phức tạp và đã có nhiều quan điểm khác nhau về sự phân biệt này. Một số nhà xã hội học cho rằng sự gần gũi hay khác biệt giữa văn hóa và văn minh nằm ở nội dung giới thiệu hai khái niệm văn hóa và văn minh.
Văn hóa được coi là biểu hiện tinh thần sâu sắc của cộng đồng, trong khi văn minh bắt nguồn từ khoa học và thể hiện trước hết ở sự tiến bộ của công nghệ, máy móc và sản xuất. Hoặc có quan điểm khác cho rằng, về bản chất, thuật ngữ văn minh là để chỉ tất cả các nền văn hóa riêng biệt có nguồn gốc chung hoặc mối quan hệ chung, chẳng hạn như nền văn minh phương Tây bao gồm Pháp, Anh, Đức, …
Một quan điểm khác cho rằng văn hóa là những khía cạnh trừu tượng hóa của một xã hội cụ thể. Và nền văn minh được chia thành nhiều cấp độ cao thấp khác nhau. Nền văn minh cao hơn được coi là một tổng thể văn hóa bao gồm những đặc điểm văn hóa quan trọng nhất được tìm thấy trong nhiều xã hội riêng biệt; Nền văn minh phương Tây trong đó có nhiều xã hội dùng chung một hình thức khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật đặc thù, … Nền văn minh thấp hơn được cấu thành bởi một dân tộc đồng nhất tiêu biểu cho các xã hội có giai cấp xuất hiện sớm nhất trong lịch sử (Ai Cập, Trung Quốc, …).
Cơ cấu của văn hóa
Biểu tượng
Biểu tượng là bất cứ thứ gì mang một ý nghĩa cụ thể được các thành viên của cộng đồng con người thừa nhận. Âm thanh, đồ vật, hình ảnh, hành động của con người và cả những nhân vật trong trang này … đều là những biểu tượng văn hóa. Các biểu tượng văn hóa thay đổi theo thời gian và cũng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau ở các nền văn hóa khác nhau. Gật đầu ở Việt Nam có nghĩa là có, nhưng ở Bulgaria thì có nghĩa là không. Ý nghĩa tượng trưng là nền tảng của tất cả các nền văn hóa, nó cung cấp cơ sở thực tế cho các cá nhân trải nghiệm trong các tình huống xã hội và làm cho cuộc sống có ý nghĩa. Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, các thành viên thường không nhận thức hết tầm quan trọng của các biểu tượng vì chúng đã trở nên quá quen thuộc. Khi thâm nhập vào nền văn hóa khác, với các biểu tượng văn hóa khác người ta có thể thấy được sức mạnh của các biểu tượng văn hóa. Nếu sự khác biệt đủ lớn, người xâm nhập có thể bị sốc nuôi cấy. Trong tất cả các nền văn hóa, người ta sắp xếp các ký hiệu thành ngôn ngữ, là hệ thống các ký hiệu có ý nghĩa chuẩn mực giúp các thành viên trong xã hội giao tiếp với nhau. Ngôn ngữ có ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, mọi nền văn hóa đều có ngôn ngữ nói nhưng không phải tất cả đều có ngôn ngữ viết. Trong các nền văn hóa có cả hai ngôn ngữ, ngôn ngữ nói cũng khác với ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ là phương tiện chuyển giao văn hóa quan trọng nhất, giúp văn hóa có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngôn ngữ cũng là nền tảng cho trí tưởng tượng của con người vì nó được liên kết bởi các dấu hiệu một cách gần như vô hạn. Điều đó giúp con người có thể thay thế những nhận thức thông thường về thế giới, tạo tiền đề cho sự sáng tạo. Ngôn ngữ quan trọng đến mức Edward Sapir và học trò của ông là Benjamin Whorf đã đưa ra giả thuyết (được gọi là Phỏng đoán Sapir-Whorf) rằng con người chỉ có thể khái niệm hóa thế giới thông qua ngôn ngữ, vì vậy ngôn ngữ có trước. nghĩ. Ngôn ngữ ảnh hưởng đến cảm nhận và suy nghĩ của con người về thế giới, đồng thời truyền tải đến các cá nhân những chuẩn mực, giá trị và sự chấp nhận quan trọng nhất của một nền văn hóa. Vì vậy, việc du nhập một ngôn ngữ mới vào xã hội trở thành vấn đề nhạy cảm ở nhiều nơi trên thế giới và là tâm điểm của các cuộc tranh luận về các vấn đề xã hội. Trong quá trình phát triển của xã hội, ngôn ngữ cũng thay đổi: nhiều từ biến mất, nhiều từ mới xuất hiện (ví dụ: sự ra đời của máy tính điện tử làm cho các từ như bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên, byte…).
Chân lý
Chân lý đó là sự chính xác và rõ ràng của tư duy. Một số người cho rằng những sự thật này là những nguyên tắc mà nhiều người đồng ý chấp nhận. Hoặc theo quan điểm thực dụng, gắn ý nghĩa của chân lý với công dụng thiết thực của nó. Hiểu một cách đúng đắn và sâu sắc, chân lý là sự phản ánh chân thực thế giới khách quan vào ý thức con người. Chân lý là tri thức phù hợp với thực tế khách quan và được thực tế kiểm nghiệm. Dưới góc độ xã hội học, chân lý là quan niệm về điều gì là đúng và điều gì là đúng. Vì lẽ đó, xã hội và mỗi nền văn hóa có những chân lý và chân lý khác nhau. Điều này có nghĩa là có những thứ mà một nền văn hóa coi là chân lý, có thể bị phủ nhận ở một nền văn hóa khác.
Một cá nhân không thể xây dựng sự thật. Sự thật chỉ có thể được hình thành thông qua các nhóm người. Các cá nhân thông qua tiếp xúc và tương tác với các nhóm nhỏ và nhóm lớn hình thành nên những ý kiến xác đáng và đúng sự thật, ngày càng trở nên khách quan hơn, sát với thực tế hơn. Vì vậy, văn hóa là tổng thể của các chân lý. Chân lý luôn cụ thể bởi vì mục tiêu thực là nguồn gốc của nó. Những sự vật, quá trình cụ thể của xã hội và con người luôn tồn tại, không thể tách rời những điều kiện khách quan lịch sử cụ thể. Khi điều kiện khách quan thay đổi, sự thật khách quan thay đổi.
Mỗi dân tộc có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau và do đó trong nền văn hóa của họ có những phần chân lý khác nhau. Ngay cả đối với một dân tộc ở những thời điểm lịch sử khác nhau, cũng có những chân lý khác nhau.
Giá trị
Giá trị (Value) với tư cách là sản phẩm của văn hóa và thuật ngữ giá trị có thể quy vào những mối quan tâm, thích thú, những ưa thích, những sở thích, những bổn phận, những trách nhiệm, những ước muốn, những nhu cầu, những ác cảm, những lôi cuốn và nhiều hình thái khác nữa của định hướng lựa chọn. Khó có một xác định nào mô tả đầy đủ phạm vi và tính đa dạng của những hiện tượng giá trị được thừa nhận. Khoa học xã hội coi giá trị như những quan niệm về cái đáng mong muốn ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn. Trong cách nhìn rộng rãi hơn thì bất cứ cái gì tốt, xấu đều là giá trị hay giá trị là điều quan tâm của chủ thể. Giá trị là cái mà ta cho là đáng có, mà ta thích, ta cho là quan trọng để hướng dẫn cho hành động của ta.
Giá trị là những gì mà qua đó thành viên của một nền văn hóa xác định điều gì là đáng mong muốn và không đáng mong muốn, tốt hay không tốt, đẹp hay xấu… Trong một xã hội, các thành viên đều xây dựng quan điểm riêng về bản thân mình và về thế giới dựa trên những giá trị văn hóa. Trong quá trình trưởng thành, con người học hỏi từ gia đình, nhà trường, tôn giáo, giao tiếp xã hội…và thông qua đó xác định nên suy nghĩ và hành động như thế nào theo những giá trị của nền văn hóa. Giá trị là sự đánh giá trên quan điểm văn hóa nên khác nhau ở từng cá nhân nhưng trong một nền văn hóa, thậm chí có những giá trị mà đại đa số các thành viên trong nhiều nền văn hóa đều thừa nhận và có xu hướng trường tồn như tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh phúc… Giá trị cũng luôn luôn thay đổi và ngoài xung đột về giá trị giữa các cá nhân hoặc các nhóm trong xã hội, trong chính bản thân từng cá nhân cũng có xung đột về giá trị chẳng hạn như giữa thành công của cá nhân mình với tinh thần cộng đồng.
Mục tiêu
Mục tiêu là một trong những yếu tố cơ bản của hành vi và hành động có ý thức của con người. Mục tiêu được coi là dự đoán kết quả của một hành động. Đó là mục tiêu thực tế cần phải hoàn thành. Mọi người tổ chức tất cả các hành động của họ xung quanh những mục đích thực tế đó. Mục tiêu có khả năng kết hợp các hành động khác nhau của con người thành một hệ thống, kích thích việc hình thành các kế hoạch hành động. Trên thực tế, tồn tại mục tiêu riêng và mục tiêu chung (cộng đồng, xã hội). Mục tiêu chung nảy sinh theo hai cách: thông qua sự nhất trí chung của các mục tiêu cá nhân trong nhóm, thông qua việc chồng chéo một số mục tiêu riêng của các thành viên trong nhóm. Mục tiêu là một phần của văn hóa và phản ánh văn hóa của một dân tộc.
Mục tiêu chịu ảnh hưởng mạnh của giá trị. Giá trị thế nào thì dễ sinh ra mục tiêu như thế, không có giá trị thì cũng không có mục tiêu, giá trị gắn bó với mục tiêu. Tuy nhiên mục tiêu là khác với giá trị.
Chuẩn mực
Chuẩn mực là tổng thể các kỳ vọng, yêu cầu và quy tắc của một xã hội được ghi lại bằng lời nói, dấu hiệu hoặc biểu tượng, qua đó xã hội hướng dẫn hành vi của các thành viên. Dưới góc độ xã hội học, những chuẩn mực văn hóa quan trọng được gọi là chuẩn mực đạo đức và những chuẩn mực văn hóa ít quan trọng hơn được gọi là phong tục truyền thống. Vì tầm quan trọng của chúng, các chuẩn mực đạo đức thường được pháp luật hỗ trợ để hướng dẫn hành vi của các cá nhân (ví dụ: ăn cắp là vi phạm các chuẩn mực đạo đức, ngoài ra còn bị xã hội phản ứng). pháp luật cũng quy định các hình phạt cưỡng chế). Các phong tục truyền thống như quy tắc giao tiếp, ứng xử nơi đông người, … thường thay đổi trong từng tình huống (ví dụ, mọi người có thể huýt sáo trong một buổi biểu diễn nhạc rock nhưng không phải khi nghe nhạc acoustic trong phòng) và các thành viên vi phạm các chuẩn mực xã hội phản ứng ít mạnh mẽ hơn ( Ví dụ, nếu một người mặc quần áo ngủ đi siêu thị để mua thứ gì đó, những người xung quanh sẽ phản đối nhưng hầu như chắc chắn không ai phản đối). Các chuẩn mực văn hóa khiến các cá nhân tuân theo, và các phản ứng tích cực (khen thưởng) hoặc tiêu cực (trừng phạt) của xã hội thúc đẩy sự phù hợp đó. Phản ứng tiêu cực của xã hội đối với những vi phạm các chuẩn mực văn hóa là cơ sở của một hệ thống kiểm soát văn hóa hoặc kiểm soát xã hội mà thông qua đó, bằng nhiều cách khác nhau, các thành viên của xã hội đồng ý tuân thủ các chuẩn mực văn hóa. Ngoài phản ứng của xã hội, phản ứng của bản thân cũng góp phần làm cho các chuẩn mực văn hóa được tuân thủ. Quá trình này là hấp thụ các chuẩn mực văn hóa, hay nói cách khác là tích hợp các chuẩn mực văn hóa vào nhân cách của một người.
3. Các loại hình văn hóa
Văn hóa phi vật thể
Là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và tri thức dân gian khác.
Văn hóa tinh thần
Văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, giá trị, chuẩn mực,… tạo nên một hệ thống. Hệ thống đó bị chi phối bởi trình độ của các giá trị, đôi khi có thể phân biệt một giá trị bản chất. Chính giá trị này mang lại cho văn hóa sự thống nhất và khả năng tiến hóa nội tại của nó.
Văn hóa vật chất
Ngoài những yếu tố phi vật chất như giá trị, chuẩn mực, … văn hóa còn bao gồm tất cả những sáng tạo hữu hình của con người mà trong xã hội học gọi chung là hiện vật. Đường xá, công trình, chùa chiền, phương tiện đi lại, máy móc thiết bị … đều là hiện vật. Văn hóa vật chất và phi vật chất có quan hệ mật thiết với nhau. Xem xét một nền văn hóa có thể thấy rằng văn hóa vật chất phản ánh những giá trị văn hóa mà nền văn hóa đó coi là quan trọng. Ở các nước Hồi giáo, công trình kiến trúc đẹp và hoành tráng nhất thường là thánh đường Hồi giáo, còn ở Mỹ, đó là trung tâm thương mại. Văn hóa vật chất còn phản ánh công nghệ, hiểu theo nghĩa xã hội học là sự ứng dụng tri thức văn hóa vào đời sống hàng ngày trong môi trường tự nhiên. Tháp Eiffel phản ánh công nghệ cao hơn tháp truyền hình Hà Nội. Ngược lại, văn hóa vật chất cũng làm thay đổi các thành phần văn hóa phi vật chất.
Khi nghiên cứu nền văn hóa, người ta thường chia thành ba phạm vi khác nhau
Phạm vi tinh thần
Phạm vi kỹ thuật;
Phạm vi của các tác phẩm – phạm vi này có một vị trí đặc biệt dành cho nghệ thuật và các tác phẩm nghệ thuật, nhất là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là biểu tượng của nền văn hóa, nó có mối liên hệ mật thiết với văn hóa. Đối với con người, biết một thứ ngôn ngữ không chỉ đơn giản là có thêm được một công cụ giao tiếp cần thiết trong đời sống hàng ngày, mà còn là một bước để bước vào một nền văn hóa và bắt đầu hiểu biết nền văn hóa đó.
Văn hóa lý tưởng và văn hóa thực tế
Giá trị và tiêu chuẩn là những gì nên làm, trên thực tế ở những mẫu xã hội, hành vi của các thành viên không hoàn toàn nhất quán với những giá trị, tiêu chuẩn ấy. Những mẫu xã hội nhất quán với giá trị, tiêu chuẩn được gọi là văn hóa lý tưởng còn những mẫu xã hội trên thực tế gọi là văn hóa thực tế. Sự khác biệt giữa văn hóa lý tưởng và văn hóa thực tế tồn tại ở mọi nền văn hóa. Đại đa số người Việt Nam ở đô thị thừa nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường nhưng một tỷ lệ đáng kể vẫn sẵn sàng vứt rác ra đường phố. Mặt khác, tiêu chuẩn, giá trị thay đổi theo thời gian và có sự khác nhau giữa các nhóm khác nhau trong xã hội nên những mẫu văn hóa trên thực tế cũng khác với văn hóa lý tưởng.
Tính đa dạng văn hóa và văn hóa chung
Trong một nền văn hóa, sự khác biệt về tuổi tác, hoàn cảnh sống, tầng lớp xã hội, … đã hình thành nên những khuôn mẫu văn hóa khác với văn hóa thống trị, còn được gọi là văn hóa phụ. Người nông thôn có thể coi người thành phố là “giả tạo” trong khi họ bị người thành phố coi là “dân quê”. Những bạn trẻ yêu nhạc Hip Hop cũng có lối sống và quan niệm sống khác với những giáo sư lớn tuổi. Trong hầu hết các xã hội hiện đại, tồn tại các nền văn hóa phụ dựa trên sắc tộc. Xã hội Việt Nam được tạo thành từ các nền văn hóa của hơn 50 dân tộc. Sự đa dạng văn hóa đôi khi gây ra những mâu thuẫn. Canada là một xã hội có hai nhóm văn hóa chính, tiểu văn hóa tổ tiên người Anh và tiểu văn hóa tổ tiên Pháp, trong đó đa số nói tiếng Anh, thiểu số còn lại nói tiếng Pháp hoặc song ngữ. Người thiểu số nói tiếng Pháp có một số bất lợi trong một xã hội bị chi phối bởi các nền văn hóa nói tiếng Anh. Mặc dù chính phủ Canada chính thức công nhận hai ngôn ngữ quốc gia, xung đột giữa những người nói tiếng Anh và tiếng Pháp vẫn tiếp diễn, thể hiện rõ trong các cuộc trưng cầu dân ý về việc tách Quebec. Pháp) ra khỏi Canada.
Trong trường hợp một mẫu văn hóa khác với văn hóa thống trị ở một mức độ đáng kể, nó được gọi là phản văn hóa hoặc phản văn hóa trong xã hội học. Khi phản văn hóa xuất hiện, sẽ có vấn đề phải xem xét lại các tiêu chuẩn và đạo đức của nền văn hóa thống trị và do đó xã hội có các biện pháp để kiểm soát nền văn hóa khỏi những tin tức tiêu cực trên các phương tiện truyền thông. thông tin liên lạc để can thiệp pháp luật. Nhiều xu hướng phản văn hóa bắt nguồn từ giới trẻ, chẳng hạn như phong trào hippie ở Mỹ vào những năm 1960 hay làn sóng đầu trọc hiện nay.
Mặc dù đa dạng, các nền văn hóa có những tập quán và tín ngưỡng chung nhất định được gọi là nền văn hóa chung hoặc phổ quát văn hóa. Nhà nhân chủng học nổi tiếng người Mỹ George Murdock (1897 – 1985) đã liệt kê ra danh sách những thứ thuộc văn hóa thông thường như thể thao; nấu nướng; Y khoa; tang lễ, hạn chế và ràng buộc tình dục, v.v.
Văn hóa và ý thức hệ chủ đạo
Văn hóa và xã hội hài hòa và để duy trì sự ổn định cần phải có những giá trị trung tâm và những chuẩn mực chung mạnh mẽ. Ở góc độ khác, có thể những giá trị và tiêu chuẩn trung tâm này được sử dụng để duy trì những đặc quyền, đặc lợi của một nhóm người trong xã hội. Hệ tư tưởng thống trị là một tập hợp các niềm tin và thực hành văn hóa nhằm duy trì các lợi ích kinh tế, xã hội và chính trị mạnh mẽ. Khái niệm này lần đầu tiên được đề xuất bởi các nhà Marxist George Lukacs (người Hungary) và Antonio Gramsci (người Ý) vào những năm 1920. Quan điểm này trở nên phổ biến trong xã hội học vào những năm 1950, tuy nhiên đến đầu những năm 1970, ông mới có chỗ đứng ở Hoa Kỳ. Theo quan điểm của Karl Marx, xã hội tư bản có hệ tư tưởng thống trị phục vụ lợi ích của các giai cấp thống trị. Các nhóm và thể chế quyền lực nhất trong xã hội không chỉ sở hữu của cải và tài sản mà còn kiểm soát ý nghĩa của việc tạo ra niềm tin về thực tại thông qua tôn giáo, giáo dục và các phương tiện khác. truyền thông đại chúng.
Sự thay đổi văn hóa
Văn hóa luôn thay đổi và quá trình này diễn ra rất nhanh chóng do những lý do chính sau:
Sáng chế: là quá trình sáng tạo ra các yếu tố văn hóa mới, việc phát minh ra bóng đèn điện, máy nghe nhạc, điện thoại, máy bay, máy tính điện tử,… có tác động lớn đến văn hóa và thay đổi cuộc sống của con người. Quá trình phát minh xảy ra liên tục giữa các nền văn hóa và thay đổi các nền văn hóa.
Khám phá: là quá trình nhận thức và hiểu một cái gì đó tồn tại, chẳng hạn như hành tinh hoặc thực vật … Khám phá có thể tình cờ như phát hiện ra lửa nhưng nó thường là kết quả của nghiên cứu khoa học.
Phổ biến: cả văn hóa vật chất và phi vật chất đều được phổ biến (hay còn gọi là khuếch tán) từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Một phát minh nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới, black jazz cũng lan sang các nền văn hóa khác, phong trào hippie từ Châu Mỹ nhanh chóng lan sang Châu Âu, Canada, Úc, các cửa hàng McDonald’s trên khắp thế giới, hay những người truyền giáo đã đi đến mọi nơi trên thế giới để lấy niềm tin của họ ở đó … Sự lan tỏa văn hóa với sự hỗ trợ của công nghệ đã dẫn đến xu hướng toàn cầu hóa văn hóa. Nhiều xã hội đang tìm cách bảo vệ mình khỏi sự “xâm lăng” của quá nhiều nền văn hóa từ các xã hội khác và để phát huy bản sắc văn hóa.
Tuy nhiên, không phải tất cả các yếu tố văn hóa đều thay đổi ở mức độ như nhau, mặc dù văn hóa vật chất và văn hóa phi vật chất có tác động qua lại lẫn nhau nhưng các yếu tố văn hóa vật chất thường thay đổi nhanh hơn. Sự thay đổi chênh lệch này được gọi là sự tụt hậu về văn hóa. Công nghệ giúp người phụ nữ này có thể sinh con bằng trứng của người phụ nữ khác, thụ tinh trong IVF rõ ràng đặt ra một vấn đề là phải hiểu thế nào là làm mẹ và làm cha, nhưng công nghệ đó thay đổi nhanh hơn. các giá trị như tình mẫu tử và tình phụ tử.
Chủ nghĩa Dân tộc thiểu số Văn hóa và Chủ nghĩa Tương đối Văn hóa
Trong một nền văn hóa có nhiều nền văn hóa con và trên Trái đất của chúng ta có nhiều nền văn hóa. Văn hóa không chỉ là cơ sở để nhận thức thế giới của con người mà còn là vấn đề đánh giá đúng sai; tốt, xấu … Do đó, việc các cá nhân đánh giá và phản ứng như thế nào đối với các mẫu văn hóa khác nhau, thậm chí rất khác với chính họ là điều đương nhiên. Các nhà xã hội học phân biệt hai cách đối phó với các mẫu văn hóa khác:
Chủ nghĩa dân tộc (hay còn gọi là chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân tộc, tiếng Anh: ethno-centrism): là hành vi đánh giá một nền văn hóa khác theo các tiêu chuẩn văn hóa của chính nó. Chủ nghĩa dân tộc là do một cá nhân gắn bó chặt chẽ với các yếu tố của nền văn hóa của họ. Tuy nhiên, điều này tạo ra một đánh giá không công bằng hoặc sai lệch về một mẫu văn hóa khác nhau bởi vì những gì được đánh giá có ý nghĩa khác nhau trong các nền văn hóa khác nhau. Chủ nghĩa dân tộc cũng có hai chiều, nếu một cá nhân đánh giá một nền văn hóa, một mô hình văn hóa khác theo hướng tiêu cực thì ngược lại, cá nhân đó cũng có thể bị đánh giá theo cách tương tự. Các nhà xã hội học và nhân học thường có quan điểm đối lập về chủ nghĩa dân tộc vì nó là một phản ứng tiêu cực, không công bằng và sai lệch đối với các nền văn hóa và mẫu văn hóa khác nhau.
Thuyết tương đối về văn hóa: là thực hành đánh giá một nền văn hóa khác theo các tiêu chuẩn riêng của nó hay nói cách khác là định giá một nền văn hóa khác trong bối cảnh văn hóa của chính nó. Đánh giá theo cách này có thể hạn chế hoặc loại bỏ những bất công, thành kiến và phản ứng tiêu cực đối với sự khác biệt văn hóa, nhưng rất khó đạt được. Để đánh giá một nền văn hóa khác bằng các tiêu chuẩn riêng của mình, các cá nhân phải hiểu các giá trị và tiêu chuẩn của nền văn hóa khác cũng như không bị phụ thuộc vào các giá trị và tiêu chuẩn của nền văn hóa của mình. Lý thuyết này cũng nhấn mạnh rằng các bối cảnh xã hội khác nhau làm phát sinh các giá trị và tiêu chuẩn khác nhau. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng tôi chấp nhận vô điều kiện các mẫu văn hóa khác nhưng đánh giá không khách quan hoặc thiên vị trong bối cảnh văn hóa của họ. Thuyết tương đối về văn hóa đang được hỗ trợ bởi sự phát triển của công nghệ và truyền thông, điều này làm cho sự lan tỏa văn hóa nhanh hơn cũng như nhu cầu tìm hiểu về các nền văn hóa khác. Một ví dụ của thuyết tương đối về văn hóa là chủ nghĩa bài ngoại, là niềm tin rằng những gì (sản phẩm, phong cách, ý tưởng, v.v.) dưới tầm với của những thứ tương tự nhưng trong nền văn hóa mà nó phát triển. Ví dụ, người Mỹ cho rằng hàng điện tử của họ không tốt bằng hàng Nhật, người Việt Nam cho rằng dầu gội sản xuất tại Việt Nam không tốt bằng hàng châu Âu dù cùng một hãng sản xuất …
Mô hình lý thuyết về nghiên cứu văn hóa
Có hai mô hình xã hội học chính được sử dụng để nghiên cứu văn hóa:
Mô hình cấu trúc chức năng: dựa trên quan điểm cho rằng văn hóa là một hệ thống có tính tổng hợp cao và tương đối ổn định theo thời gian. Trong hệ thống này, mỗi yếu tố hoặc đặc điểm văn hóa được hiểu theo nghĩa chức năng đóng góp vào việc vận hành và duy trì văn hóa nói chung. Nhìn chung, mô hình này nhấn mạnh tính ổn định của văn hóa và coi các giá trị là nền tảng của hệ thống văn hóa. Ở một mức độ nào đó, chủ nghĩa cấu trúc chức năng dẫn đến chủ nghĩa duy tâm triết học, coi các giá trị là cơ sở của thực tại con người. Mô hình này cho rằng hệ thống văn hóa phải được sắp xếp để đáp ứng nhu cầu của con người và do đó phải có nhiều điểm chung dẫn đến tính phổ cập văn hóa. Đồng thời có nhiều cách để đáp ứng nhu cầu của con người, vì vậy các nền văn hóa trên thế giới trở nên đa dạng. Hạn chế của mô hình cấu trúc chức năng là xu hướng nhấn mạnh các hình thái văn hóa chủ đạo của một xã hội mà ít chú ý đến sự đa dạng văn hóa bên trong nó, đặc biệt trong trường hợp khác biệt văn hóa phát sinh từ bất công xã hội.
Mô hình xung đột xã hội: mô hình này coi văn hóa không chỉ là một hệ thống tổng hợp cao mà còn tính đến những xung đột xã hội do bất bình đẳng giữa các nhóm trong xã hội tạo ra. Mô hình này không coi các giá trị văn hóa nhất định là điều hiển nhiên, mà là chỉ trích lý do tại sao chúng tồn tại. Các nhà xã hội học áp dụng mô hình này, đặc biệt là những người chịu ảnh hưởng của Karl Marx, cho rằng bản thân các giá trị được định hình bởi các yếu tố văn hóa khác – đặc biệt là hệ thống sản xuất của nền văn hóa. Theo nghĩa này, mô hình mâu thuẫn xã hội có liên quan đến học thuyết của chủ nghĩa duy vật triết học. Mô hình duy vật này đối lập với chủ nghĩa duy tâm của mô hình cấu trúc chức năng. Mô hình xung đột xã hội có ưu điểm là cho thấy một hệ thống văn hóa không giải quyết nhu cầu của các thành viên một cách bình đẳng và các yếu tố văn hóa được sử dụng để duy trì sự thống trị của nhóm. người này đến nhóm người khác. Một hệ quả của sự bất bình đẳng này là các hệ thống văn hóa tạo ra động lực thúc đẩy sự thay đổi. Hạn chế của mô hình mâu thuẫn xã hội là quá chú trọng đến sự phân chia văn hóa mà ít chú ý đến các biện pháp trong đó mô hình văn hóa gắn kết mọi thành viên trong xã hội. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc áp dụng cả mô hình cấu trúc và xung đột xã hội để có sự hiểu biết đầy đủ hơn về văn hóa.
Ngoài ra còn có hai mô hình lý thuyết khác được sử dụng để phân tích văn hóa nhấn mạnh văn hóa được hình thành trong thế giới tự nhiên, do đó được gọi là phân tích văn hóa theo chủ nghĩa tự nhiên:
Mô hình sinh thái văn hóa: Mô hình này khám phá mối quan hệ giữa văn hóa và môi trường tự nhiên, một phần bổ sung cho những gì mà mô hình xung đột xã hội cũng như cấu trúc chức năng mang lại ít quan trọng. Nó cung cấp mối liên hệ giữa các khuôn mẫu văn hóa và những hạn chế mà con người gặp phải trong môi trường tự nhiên như đặc điểm khí hậu, sự sẵn có của nước, thực phẩm và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Tuy nhiên, mô hình có giới hạn ở chỗ môi trường tự nhiên hiếm khi định hình trực tiếp các mẫu văn hóa, nơi văn hóa và thiên nhiên tương tác. Mặt khác, các yếu tố văn hóa liên kết với tự nhiên một cách không đồng đều.
Mô hình xã hội học: một mô hình lý thuyết nhằm giải thích các mô hình văn hóa là kết quả của các nguyên nhân sinh học. Mô hình này được phát triển trên cơ sở thuyết tiến hóa của Charles Darwin áp dụng cho con người. Mặc dù mô hình này có thể cung cấp những hiểu biết sâu sắc về nguồn gốc sinh học của một số mô hình văn hóa, đặc biệt là tính phổ biến của văn hóa, nhưng nó hiện đang bị nghi ngờ và gây tranh cãi. Trong lịch sử, thực tế sinh học đã bị lạm dụng để biện minh cho nhu cầu về một chủng tộc nhất định phải được đặt cao hơn trong xã hội, như Đức Quốc xã đã làm. Vì vậy, mô hình sinh học xã hội hoài nghi sẽ dẫn đến làm điều tương tự. Ngoài ra, mô hình này cũng dễ bị thành kiến về giới, mặc dù thành kiến về giới không chỉ dựa trên sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ mà dựa trên sự khẳng định rằng nam giới dù sao cũng tốt hơn hoặc có giá trị hơn.
XEM THÊM TẠI: https://monantuga.com/